II - Âm Nhạc Việt Nam Trong Giai Đoạn 1945 - 1954
Cách mạng Tháng Tám 1945 đánh dấu một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử đân tộc Việt Nam, đồng thời cũng mở ra một bước ngoặt cực kỳ quan trọng trong lịch sử âm nhạc nước ta.
l. Hầu hết những người hoạt đông âm nhạc trước tháng 8-1945 đều hăng hái tham gia phục vụ cách mạng, trong đó có nhiều người thuộc khuynh hướng lãng mạn cũ, và cả các đoàn quân nhạc của chế độ cũ nữa. Các nhạc sĩ thuộc dòng nhạc cách mạng và yêu nước tiến bộ trước đây đã trở thành lực lượng nòng cốt của đội ngũ này.
Nhiều bài hát mới đã ra đời, nhiệt thành ca ngợi chế độ mới, cuộc sống mới, Bác Hồ kính yêu và công ơn đổi đời của cách mạng...
Khi giặc Pháp quay trở lại gây hấn ở Nam Bộ (9-1945) rồi đến khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, đông đảo anh chị em làm âm nhạc đã hăng hái tham gia công cuộc chiến đấu thần thánh của dân tộc. Nhiều người đã xung phong tòng quân.
Trong suốt 9 năm, hằng trăm bài hát mới đã được sáng tác, với nội dung bám rất sát các nhiệm vụ chính trị từng giai đoạn, từng vùng, phản ánh khá sinh động nhiều nét đẹp trong cuộc sống hào hùng của quân và dân ta, khắc họa được nhiều hình tượng rất đẹp về các anh bộ đội, về bà con nông dân, về các chị phụ nữ ở hậu phương, về anh chị em thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến, về tình quân dân, về Đảng ta và Bác Hồ muôn vàn yêu kính...
Khoảng năm 1949 - 1950 trở về sau, cùng với việc đi sâu vào cuộc sống kháng chiến, thấm nhuần quan điểm đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng, những người hoạt động âm nhạc Việt Nam đã ra sức học tập vốn dân gian dân tộc truyền thống. Do vậy, rất nhiều tác phẩm, tiết mục ra đời từ những năm ấy đã có được bản sắc dân tộc đậm đà hơn, đạt được những thành công rất tốt đẹp trong việc kế thừa và phát huy tinh hoa dân tộc cổ truyền, sáng tạo nên ngôn ngữ hình thức vừa giàu tính dân tộc, vừa mang hơi thở của thời đại.
Cho đến nay, những bài hát như Tiếng chuông nhà thờ, Du kích sông Thao, Sông Lô, Người Hà Nội, Bộ đội về làng, Vì nhân dân quên mình, Lời dặn dò trước lúc ra đi, Quê em, Đóng nhanh thóc tốt, Lên ngàn, Ca ngợi Hồ Chủ tịch, Chào mừng Đảng Lao động Việt Nam, Hò kéo pháo, Qua miền Tây Bắc, Chiến thắng Điện Biên, v. v... vẫn mãi mãi rung động lòng người, gợi nhớ những hình ảnh, những kỷ niệm không thể nào phai của chín năm gian khổ và vô cùng oanh liệt ấy...
2. Về lực lượng biểu diễn, từ những đội tuyên truyền xung phong, tuyên truyền văn nghệ gồm chừng trên dưới mười người hồi đầu kháng chiến, đến những năm sau chiến thắng biên giới (1950), do đòi hỏi mới và do sự lớn mạnh của đội ngũ, một số đoàn biểu diễn với quy mô vài chục người đã được thành lập: Đoàn Văn công Nhân dân T.W. (tiền thân của các nhà hát Ca Múa nhạc, Kịch nói, Chèo T.W. hiện nay), Đoàn văn công Tổng cục Chính trị, Đoàn Quân nhạc cũng được khôi phục, củng cố. Một số khu, liên khu, sư đoàn cũng có đơn vị biểu diễn của địa phương, đơn vị mình.
Nhiều nghệ sĩ biểu diễn đã được đông đảo nhân dân yêu mến: như Quốc Hương, Thương Huyền, Mai Khanh...
Trong kháng chiến, một phong trào ca hát nhảy múa quần chúng rất rộng rãi đã được xây dựng, thu hút đông đảo bộ đội, cán bộ, dân công, và nhiều tầng lớp nhân dân, nhất là thanh niên, học sinh, thiếu nhi tham gia.
Mặc dầu bận trăm công ngàn việc, Bác Hồ kính yêu của chúng ta vẫn dành thời giờ múa hát vui tập thể với cán bộ, với các cháu thiếu nhi yêu quý. Bác thường cầm nhịp chỉ huy mọi người hát bài "Kết đoàn", thể hiện ý chí và sức mạnh tất thắng của nhân dân ta.
*
* *
Nhìn tổng quát lại, trong chín năm đánh Pháp, âm nhạc của ta đã có một bước trưởng thành đáng tự hào. Đội ngũ sáng tác và biểu diễn phát triển khá nhanh, toàn tâm toàn ý phục vụ sự nghiệp kháng chiến vẻ vang của dân tộc.
*
**
III - Âm Nhạc Việt Nam Trong Giai Đoạn 1955 - 1975
Sau chiến thắng Điện Biên chấn động địa cầu, hòa bình được lập lại miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, dẩy mạnh khôi phục và phát triển kinh tế, hoàn thành cải cách ruộng đất, rồi tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên mọi lĩnh vực.
1. Trong những năm từ 1955 tới đầu thập kỷ 60, hàng loạt tác phẩm và tiết mục mới thuộc nhiều thể loại đã xuất hiện, ca ngợi chiến thắng hết sức vẻ vang của ta, ca ngợi quê hương tươi đẹp khi không còn bóng giặc, ca ngợi lực lượng ta lớn mạnh và khí thế cách mạng bừng sôi trong giai đoạn mới, như các bài hát: Quê tôi giải phóng, Việt Nam quê hương tôi, Những ánh sao đêm, Trên đuờng ta đi tới, Tiến bước dưới quân kỳ, Bài thơ gửi Thái Nguyên, v.v...
Nỗi đau đất nước còn bị chia cắt, ý chí đấu tranh và niềm tin sắt son vào một ngày mai non sông một dải nhất định được thống nhất vẹn toàn cũng đã được thể hiện rất sâu sắc trong rất nhiều tác phẩm, tiết mục mới: Câu hò bên bến Hiền Lương, Giữ trọn tình quê, Bài ca hy vọng, Xa khơi, Tình ca, Miền Nam quê hương tôi, v.v...
Rồi đến khi nhân dân miền Nam vùng dậy đồng khởi, cầm súng diệt thù giải phóng quê hương, hàng loạt tác phẩm vô cùng xúc động lòng người đã xuất hiện, mở đầu là bài Giải phóng miền Nam.
2. Trong điều kiện miền Bắc có hòa bình và bắt đầu công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhằm đáp ứng đòi hỏi phát triển sự nghiệp âm nhạc và thỏa mãn nhu cầu thưởng thức ngày càng cao và càng đa dạng của nhân dân ta, trong vòng 10 năm (1955 - 1965), Bộ Văn hóa và các Sở, Ty địa phương đã tiến hành xây dựng hàng loạt thiết chế và tổ chức nghệ thuật.
Nhà Xuất bản Âm nhạc (trực thuộc Cục Xuất bản) cũng đã ra đời từ đầu thập kỷ 60.
3. Khi đế quốc Mỹ liều lĩnh và trắng trợn đánh phá miền Bắc (bắt dầu từ ngày 5-8-1964), các nhạc sĩ, ca sĩ Việt Nam đã lập tức cất lên tiếng thét phẫn nộ qua các bài hát Giặc đến nhà, ta đánh! Thề quyết bảo vệ tổ quốc, Đánh đích đáng, Sẵn sàng bắn v.v...
Và một lần nữa, anh chị em hoạt động âm nhạc lại ba lô lên vai, tay đàn tay súng, vượt mọi gian nan, tỏa về những mũi nhọn của cuộc sống chiến đấu và sản xuất.
4. Các nhạc sĩ, ca sĩ đã dành những lời ca đẹp nhất, những giai điệu thiết tha sâu lắng nhất để ca ngợi Hồ Chủ tịch kính yêu, để ca ngợi công ơn trời biển của Bác, để khẳng định rằng Bác Hồ đời đời sống mãi trong sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng toàn dân ta, và cũng để nói lên ý chí, quyết tâm của toàn dân ta, quyết tâm thực hiện những điều Bác hằng mong ước, những điều Bác dặn dò cặn kẽ chúng ta khi Bác đi xa... Hằng trăm bài hát như vậy đã được hoàn thành trong những năm này, như: Tiếng hát giữa rừng Pác Bó, Hồ Chí Minh đẹp nhất tên Người, Trông cây lại nhớ đến Người, Người là niềm tin tất thắng, Bác Hồ sống mãi với Tây Nguyên, Bác đang cùng chúng cháu hành quân, Miền Nam nhớ ơn Người, Tình Bác sáng đời ta, Bác vẫn bên ta, Lời thề sắt son v.v...
5. Việc ra đời và trưởng thành của những đơn vị biểu diễn lớn nói bên trên, cùng với sự lớn mạnh của đội ngũ sáng tác đã cho phép chúng ta biên soạn, dàn dựng trình diễn nhiều tiết mục thuộc các thể loại vừa và lớn thuộc loại hình âm nhạc bác học hàn lâm mà ta tiếp thu của thế giới (như mọi nền âm nhạc tiền tiến của các nước văn minh đều có). Trong khoảng thời gian từ 1955 đến 1975 đã xuất hiện hàng loạt tác phẩm và tiết mục thuộc các thể loại này, như các nhạc kịch: A Sao, Người tạc tượng, Bên bờ Krông Pa, Bông Sen, các kịch múa như: Tấm Cám, Xô Viết Nghệ Tĩnh, Bả Khó, Thạch Sanh, Rừng thương núi nhớ, Người con trai làng Gióng, Mẹ và con, các tổ khúc giao hưởng (suite symphonique) Quê hương Việt Nam, Sao Bắc Đẩu, các bản thơ giao hưởng (poème symphonique) Thành đồng Tổ quốc, Lửa cách mạng, Đồng khởi, bản nhạc giao hưởng (symphonie) Cây đuốc sống, Quê Hương, thanh xướng kịch (oratorio) Nguyễn Văn Trỗi và nhiều bản tam tấu (trio), tứ tấu (quartuor), xônát (sonate), v.v... khác nữa.
6. Trong những năm chống Mỹ cứu nước, ở cả hai miền đất nước, bên cạnh việc phục vụ qua làn sóng điện cho hàng triệu thính giả cùng nghe một lúc, anh chị em các đoàn nghệ thuật thường xuyên chia thành những tốp nhỏ đi khắp nơi, đến các tuyến lửa để phục vụ và cổ vũ quân và dân ta đánh giặc và sản xuất.
Sân khấu biểu diễn "dã chiến" của anh chị em thật muôn hình muôn vẻ: bên ụ pháo cao xạ, trên tháp xe tăng, dưới giàn tên lửa, trên boong tàu, giữa các cỗ máy, bên giường thương bệnh binh, trong hầm sâu địa đạo... có trường hợp anh chị em đã biểu diễn ngay trong lòng một hố bom cỡ lớn mà đáy hố được anh chị em thanh niên xung phong san bằng làm nơi diễn, còn người xem thì ngồi trên thành hố thoai thoải. "Vé" vào xem biểu diễn bắt buộc mỗi người phải có là một cành lá ngụy trang...
Đoàn văn công giải phóng Nam Bộ có lần đã hành quân băng rừng lội suối đến địa điểm bí mật để biểu diễn cho các khán giả bịt mặt ngồi xem, đó là các chiến sĩ biệt động nội thành ra họp.
Ngay trong đêm Nôen 1972, giữa đợt địch đánh phá ác liệt bằng máy bay B52, Bích Liên vẫn hát vang "Bài ca hy vọng" tại trận địa pháo bảo vệ Thủ đô.
Những hoạt động biểu diễn nói trên của các đoàn chuyên nghiệp đã cùng với những hoạt động nghệ thuật không chuyên rất sôi nổi khắp nơi trong những năm đánh Mỹ hợp thành phong trào "Tiếng hát át tiếng bom" rộng lớn, đầy khí phách rất dáng tự hào của nhân dân ta và đội ngũ nghệ thuật chúng ta.
7. Khoảng từ năm 1965, khi đế quốc Mỹ ồ ạt kéo mấy chục vạn quân vào miền Nam, đời sống tại các đô thị trong vùng tạm chiến bị xáo trộn rất mạnh. Trong sinh hoạt vãn nghệ, nhiều sản phẩm lai căng ra đời, khiến người có ý thức dân tộc cảm thấy phẫn nộ. Một phong trào hát đân ca trong sinh viên học sinh ra đời.
8. Nghiêm túc kế thừa tinh hoa nghệ thuật cổ truyền, tiếp tục công việc đã bắt dầu từ thời kỳ đánh Pháp, trong thời gian 1955 - 1975, ta đã sưu tầm được hơn 6000 bài bản dân ca, nhạc cổ với hơn 100 loại nhạc cụ khác nhau.
Nhiều hình thức sinh hoạt ca nhạc cổ truyền được khôi phục. Nhiều thể loại được trân trọng thể nghiệm đưa lên sân khấu trình diễn, như: hát văn, ca trù, hát xoan, quan họ, ví dặm, dân ca Trị Thiên, bài chòi, ca lý Nam Bộ và nhiều dân ca các dân tộc ít người.
9. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, xây dựng đội ngũ nghệ thuật được đặc biệt coi trọng, ngay cả trong hoàn cảnh có chiến tranh. Trong 20 năm (1955 - 1975) ta đã đào tạo thêm được hàng ngàn cán bộ diễn viên. Một số trong đó đã được chi viện kịp thời cho miền Nam ruột thịt. Bên cạnh các anh chị đã nổi danh từ thời đánh Pháp, ta đã có thêm nhiều nghệ sĩ tài năng như Vũ Tuấn Đức, Tạ Bôn... và một số chỉ huy dàn nhạc như: Trọng Bằng, Trần Quý, Quang Hải, Lê Đóa...
Sau đại thắng mùa xuân 1975, khi tổng kết hoạt động trong chống Mỹ cứu nước, nhưng người làm công tác âm nhạc Việt Nam rất vui mừng nhận thấy toàn ngành đã có một bước tiến lớn, vượt bậc và đã phục vụ hết lòng, có hiệu quả cho sự nghiệp dựng nước và giữ nước vĩ đại trong 20 năm qua.
*