IV - Âm Nhạc Việt Nam Trong Giai Đoạn 1975 - 1995
A) Giai đoạn 1975 - 1985
1. Theo sát bước chân các đoàn quân chiến thắng, các đoàn nghệ thuật giải phóng, các đoàn miền Nam tập kết và các đoàn từ phía Bắc đã tiến vào Sài Gòn và các tỉnh, thành vừa sạch bóng thù.
Những buổi trình diễn đông nghịt khán thính giả đã mang đến cho đồng bào vùng mới được giải phóng những tình cảm thân thương ruột thịt, sự xúc động mãnh liệt và niềm tự hào được là con dân của đất nước Việt Nam anh hùng.
Những bài hát Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng, Mùa xuân trên thành phố Hồ Chí Minh, Đất nước trọn niềm vui, Tiếng hát từ thành phố mang tên Người, Nha Trang ơi - mùa thu lại về v.v... rồi các bài Đuờng tàu mùa xuân, Tàu anh qua núi, Lời ca thống nhất, v.v... luôn luôn vang lên trên sân khấu trên làn sóng điện, và trong nhiều sinh hoạt tập thể khác.
Những lời ngợi khen tốt đẹp nhất đã được dành cho các đoàn và các nghệ sĩ của chúng ta.
Có khán giả được xem Nhà hát Giao hưởng Hợp xướng Nhạc vũ kịch trình diễn xong đã thốt lên: "Chỉ có miền Bắc XHCN mới xây dựng được nghệ thuật cao cấp, và có quy mô lớn như vậy!".
Tiếp đó, nhiều đoàn ca múa của các tỉnh thành phía Nam đã được nhanh chóng thành lập với sự chi viện về cán bộ nòng cốt của Bộ Văn Hóa và các tỉnh thành phía Bắc kết nghĩa, đưa tổng số đơn vị biểu diễn ca múa nhạc chuyên nghiệp trong cả nước lên tới con số hơn 60 đơn vị vào những năm giữa thập kỷ 80.
Nhiều ca sĩ, nhạc công có tên tuổi trong vùng tạm chiếm trước đây cũng đã hăng hái tham gia hoạt động trong các đơn vị mới xây dựng này.
2. Sự phát triển nghệ thuật của dất nước đã hoàn toàn giải phóng và thống nhất đòi hỏi phải nhanh chóng đẩy mạnh công tác đào tạo, nhanh chóng mở rộng mạng lưới các trường.
Trường Âm nhạc Việt Nam đã trở thành Nhạc Viện Hà Nội, với 3 cấp học (sơ, trung, đại học) hoàn chỉnh. Tiếp theo đó Trường Quốc gia Âm nhạc Sài Gòn mà ta tiếp quản từ năm 1975, được Nhạc viện Hà Nội hết lòng chi viện, cũng đã trở thành Nhạc viện thành phố Hồ Chí Minh. Huế cũng nhanh chóng trở thành một trung tâm đào tạo của miền Trung nước ta, với sự thành lập của Trường Cao đẳng Nghệ thuật Huế. Trong đó, khoa âm nhạc chiếm một vị trí rất quan trọng.
Tới nay, trong cả nước ta đã có một mạng lưới dào tạo gồm hơn 20 trường. Ngoài 2 nhạc viện ra, các trường văn hóa nghệ thuật khác đều có khoa, hoặc bộ môn âm nhạc với chất lượng ngày càng được nâng cao.
Tin vui nức lòng người đã đến với chúng ta mùa thu năm 1980: Đặng Thái Sơn, chàng sinh viên trẻ 22 tuổi, đã đoạt giải nhất trong cuộc thi piano quốc tế mang tên Sô panh (F. Chopin) lần thứ 10 tổ chức tại Ba Lan. Anh là người Châu á đầu tiên đoạt giải thưởng lớn trong cuộc thi âm nhạc vào loại khó nhất thế giới được tổ chức 5 năm một lần này.
Mấy năm sau, Tôn Nữ Nguyệt Minh cũng giành được liền hai giải nhì tại 2 cuộc thi piano ở Italia, làm vẻ vang thêm nền âm nhạc nước ta.
Cũng trong khoảng thời gian mười năm (1975 - 1985) này, nhiều tên tuổi diễn viên đã trở nên thân quen và được công chúng mến mộ rộng rãi như Thu Hiền, Đỗ Lộc...
3. Miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước có hòa bình là điều kiện hết sức thuận lợi để đẩy mạnh công tác sưu tầm nghiên cứu âm nhạc.
Việc tìm thấy đàn đá ở Khánh Sơn (Khánh Hòa) năm 1979 rồi tiếp theo ở Bắc ái (Bình Thuận) và một số nơi khác đã mang lại niềm vui cho nhân dân cả nước, và là một sự khích lệ rất lớn đối với các nhà nghiên cứu âm nhạc nước ta.
Nhiều tỉnh thành, đặc biệt là các tỉnh phía Nam, đã hoàn thành và xuất bản công trình sưu tầm dân ca của địa phương mình.
Hàng chục nhạc cụ dân tộc cổ truyền đã được nghiên cứu cải tiến đạt kết quả tốt, như: đàn bầu, đàn tơ rưng, đàn krông pút, đàn gôông, đàn đinh pah, đàn ống tre lắc, sáo H’mông, bộ nhạc cụ gõ (trống, fách, mõ, xênh tiền, xập xỏa, hưn mạy, v.v...) Cây đàn tơ rưng do Đỗ Lộc cải tiến đã được đông đảo bà con các dân tộc Tây Nguyên rất yêu mến. Cụ Y Bi Alêô đã nói: "Cái đàn tơ rưng này bây giờ nói tiếng dân tộc cũng giỏi, nói tiếng kinh cũng giỏi, lại nói được cả tiếng nước ngoài nữa!"
B) Giai đoạn 1986 - 1995
Từ Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng họp năm 1986 trở lại đây, đất nước ta bước vào một thời kỳ mới: công cuộc đổi mới đã và đang diễn ra trên khắp mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trong thời kỳ mới này, ngành âm nhạc cũng đã có một bước phát triển mới với nhiều nét mới đáng khích lệ:
1. Hàng loạt các tác phẩm mới thuộc rất nhiều thể loại lớn nhỏ đã xuất hiện và đã được dàn dựng thành tiết mục của các nhà hát và các đoàn, trong đó có:
Nhiều vở kịch hát mới diễn trọn đêm
Nhiều bản độc tấu, hòa tấu nhạc cụ cổ truyền
Nhiều bản nhạc giao hưởng và nhạc thính phòng đã tham dự cuộc thi sáng tác được phát động từ năm 1992. Sáu tác phẩm được giải đã được trình diễn, thu thanh năm 1993. Trước đó, một chương trình gồm 5 tác phẩm nhạc giao hưởng về đề tài lực lượng vũ trang đã được dàn dựng và trang trọng trình diễn.
Hàng trăm ca khúc mới với các phong cách bút pháp khá phong phú đã được biên soạn. Nhiều bài được công chúng đông đảo rất yêu thích, trở thành tiết mục luôn được thính giả yêu cầu phát thanh, biểu diễn.
Nhiều ca khúc "tiền chiến" được sưu tầm, trình diễn. Nhiều bài hát trữ tình lãng mạn vùng tạm chiến cũ cũng đã được xem xét và sử dụng.
2. Nhiều đợt hội diễn chuyên nghiệp toàn quốc đã được liên tục tổ chức suốt từ năm 1978 tới nay. Đặc biệt là từ 1987 trở lại đây bên cạnh các đợt hội diễn, liên hoan ca múa nhạc tổng hợp, còn có nhiều đợt hội diễn, liên hoan, hội thi chuyên ngành: riêng về ca, riêng về nhạc, hoặc chuyên đề loại hình kịch hát mới. Có những đợt hội thi chuyên về ca múa nhạc dân tộc truyền thống, thi chuyên hát dân ca, lại có những đợt chuyên về ca múa nhạc nhẹ hiện đại.
Năm 1995,một cuộc hội diễn ca múa nhạc chuyên nghiệp toàn quốc có quy mô khá lớn (với 53 đơn vị nghệ thuật và 2.118 nghệ sĩ diễn viên) đã được long trọng tổ chức để chào mừng các ngày lễ lớn trong năm.
Ta cũng đã tổ chức các cuộc thi quốc gia, với thể lệ thi chặt chẽ như các cuộc thi quốc tế, dành riêng cho loại hình nhạc thính phòng bác học hàn lâm mang tên "Mùa thu" được tổ chức vào các năm 1990, 1993 tại Hà Nội, với khá đông thí sinh tham dự.
Trong các đợt hội diễn, hội thi chuyên đề này, đặc điểm phong cách từng dòng, từng loại hình đã được hết sức chú trọng làm rõ và phát huy.
Hàng trăm anh chị em đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu nghệ sĩ ưu tú và nghệ sĩ nhân dân.
Và cần phải đặc biệt kể tới: Đỗ Phượng Như (2 lần đoạt giải nhì về thi violon quốc tế cho thiếu niên), Lê Thị Ngọc Thanh (giải nhất cuộc thi quốc tế về accordeon tại Paris năm 1988, Bùi Công Duy (giải nhất cuộc thi violon tại Nevossibirsk, Cộng hòa Liên bang Nga năm 1995). Các anh chị em: Lê Dung, Quang Thọ, Quỳnh Liên, Rơ Chăm Pheng, Mai Tuyết, Thanh Tâm, đã được tặng giải nghệ sĩ xuất sắc tại nhiều đợt Liên hoan nghệ thuật Mùa Xuân Bình Nhưỡng. Nhóm nghệ sĩ trẻ "Phong Lan" đã giành được giải nhất tại Liên hoan quốc tế về ca nhạc dân tộc tổ chức tại Dijon (Pháp) mùa hè 1993.
4. Trong 10 năm đổi mới (1986 - 1995), hoạt động nghiên cứu âm nhạc cũng đã đạt được nhiều thành tựu mới đáng mừng. Một loạt công trình đã được hoàn thành và xuất bản như Lược sử âm nhạc Việt Nam, Dân ca Việt Nam, Đặc điểm âm nhạc trong nghệ thuật tuồng, Dân ca dân tộc Việt v.v...
Riêng năm 1995, các cuốn Nghệ thuật cồng chiêng dân tộc Xtiêng tỉnh Sông Bé (319 trang) và Thang âm điệu thức trong âm nhạc truyền thống một số dân tộc miền Nam Việt Nam (429 trang) cũng đã ra mắt công chúng.
Nhiều cuộc hội thảo khoa học âm nhạc đã được tiến hành, đánh dấu một bước tiến mới của đội ngũ cán bộ nghiên cứu, lý luận của chúng ta.
5. Phong trào ca hát quần chúng phát triển mạnh mẽ mà đỉnh cao là những cuộc liên hoan, những nhạc hội mang tính toàn quốc như: các nhạc hội cồng chiêng, hát ru, hát giao duyên; các cuộc liên hoan "Tiếng hát hẹn hò chín dòng sông", "Hát về biển", "Tiếng hát Làng Sen", "Sơn ca", "Liên hoan các giọng hát hay trên làn sóng điện", "Liên hoan nghệ thuật thiếu nhi các dân tộc", các cuộc thi đàn oóc-gan cho thiếu nhi do nước ngoài tài trợ, rồi các cuộc hội diễn không chuyên của lực lượng vũ trang, của công an nhân dân, của các ngành hàng không, bưu điện, liên hoan các giọng hát hay trong học sinh sinh viên, trong công nhân viên chức, v.v... và vân vân...
Tất cả những hoạt động ca nhạc không chuyên đó đã phối hợp chặt chẽ và nhịp nhàng với các hoạt động chuyên nghiệp, trên sân khấu và trên làn sóng điện, làm phong phú thêm rất nhiều đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân ta, nâng cao thêm đáng kể mức hưởng thụ nghệ thuật của nhân dân ta, kể cả của quân và dân ở biên giới, hải đảo xa xôi...
*
**
Mấy lời kết:
Trong chặng đường nửa thế kỷ qua, một nền âm nhạc xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ra đời và trưởng thành nhanh chóng.
Từ một khởi điểm, một cơ sở ban đầu quá mảnh mai, nhỏ yếu lại phải trải qua mấy thập kỷ liên tục có chiến tranh, vậy mà đến nay ta đã có một cơ ngơi âm nhạc khá bề thế, một lực lượng gồm cả chuyên nghiệp và không chuyên khá hùng hậu, một đời sống âm nhạc khá phong phú.
Điều đáng quý và đáng tự hào về nền âm nhạc của chúng ta không chỉ ở số lượng tác phẩm khá lớn (gồm hàng vạn bài hát, bản nhạc, cùng rất nhiều tác phẩm thuộc các thể loại lớn như: nhạc giao hưởng, nhạc kịch, đại hợp xướng, kịch hát mới, nhạc cho kịch múa, cho hàng trăm vở sân khấu, hàng trăm cuốn phim các loại...) cũng không chỉ ở số lượng của đội ngũ đông gấp bội so với khi Cách mạng Tháng Tám mới thành công và trình độ nghề nghiệp ngày càng được nâng cao, mà chủ yếu ở tác dụng xã hội rất tích cực của nó, chủ yếu ở chỗ nó đã góp sức hun đúc nên những giá trị tinh thần, đạo đức mới, những tình cảm cách mạng và nhân văn cao đẹp của nhân dân ta trong thời đại Hồ Chí Minh vĩ đại.
Mặc dầu hiện nay vẫn còn không ít khó khăn và tồn tại đòi hỏi tiếp tục nỗ lực phấn đấu khắc phục, nhưng với những gì đã đạt được, với những kinh nghiệm rất quý đã rút tỉa được, với niềm sung sướng tự hào và ý thức trách nhiệm của người nghệ sĩ - chiến sĩ, những người hoạt động âm nhạc Việt Nam đang ra sức phấn đấu đưa nền nghệ thuật vừa có truyền thống lịch sử lâu đời lại vừa rất trẻ và đầy sức sống của mình tiếp tục tiến lên, vươn tới những tầm cao mới, xứng đáng hơn nữa với sự nghiệp vinh quang của Đảng và nhân dân ta, xứng đáng hơn nữa với Tổ quốc và thời đại vẻ vang của chúng ta ngày nay